Sau những đêm diễn ở Hải Phòng, Thế Lữ mong muốn được đem nhóm kịch lên Hà Nội. Một may mắn đến với cả nhóm là lời mời của tờ báo Tin tức, cơ quan ngôn luận của Mặt trận Dân chủ Đông Dương. Được Nguyên Hồng, Như Phong gợi ý, tờ báo muốn mời nhóm kịch Thế Lữ lên diễn tại Nhà hát lớn Hà Nội để làm công tác vận động quần chúng. Với sự giúp đỡ trực tiếp của Đào Duy Kỳ ở Tin tức, nhóm đã dàn dựng và công diễn hai vở Ông Ký Cóp (19 tháng 11 năm 1938) và Lọ vàng (13 tháng 5 năm 1939). Hai đêm diễn đều gây tiếng vang lớn đổi với khán giả Hà Nội và nhận được nhiều bài tường thuật, bình luận trên các báo, đặc biệt là các bài phê bình tích cực của Như Phong, Nguyễn Tuân, Chu Ngọc, Thạch Lam[41]. Trong vở hài kịch Lọ vàng, vở diễn mà Thế Lữ đã tham gia khi còn là học sinh, ông lần nữa đóng vai lão Quý, tạo dựng thành công hình ảnh một lão Quý "bần tiện, ích kỷ, đầy dục vọng xấu xa". Cuối năm 1938, Thế Lữ kết hôn với Song Kim, một diễn viên trong nhóm kịch.
Thời gian này, bên cạnh công việc tại tòa soạn báo Ngày nay, Thế Lữ chủ yếu ở ngôi nhà trên Ngã Tư Sở, được ông thuê làm trụ sở cho nhóm kịch. Hoạt động kịch của Thế Lữ gặp phải sự phản đối của Nhất Linh và Hoàng Đạo trong Tự Lực văn đoàn, bởi họ không muốn Thế Lữ vì thế mà giảm sút hoạt động làm báo với họ. Ngược lại, Khái Hưng, Thạch Lam và Tú Mỡ lại ủng hộ nhóm kịch. Khái Hưng viết một số vở kịch cho nhóm, Thạch Lam viết nhiều bài phê bình để khích lệ. Về Tú Mỡ, vốn say mê nghệ thuật sân khấu, cũng hứa tham gia nhóm kịch khi nào Thế Lữ cần.
Nửa cuối năm 1939, nhóm kịch của Thế Lữ hoạt động trầm lặng, chỉ đi diễn ở một số tỉnh lẻ. Ngoài Lọ vàng, trong năm này nhóm chỉ dựng vở Đoạn tuyệt (do Nguyễn Xuân Đào soạn từ tiểu thuyết của Nhất Linh). Vở này lần đầu ra mắt vào tháng 3 năm 1939, có sự tham gia lần đầu của Tú Mỡ với nhiều sáng tạo trong vai Thân, anh chồng giàu có nhưng đần độn, nhạt nhẽo. Nhìn chung, sau những buổi trình diễn, nhóm kịch Thế Lữ tỏ ra có uy tín vững chắc hơn ban kịch Tinh hoa trước đây, bởi kịch bản và trình độ nghệ thuật chắc chắn trong cách diễn, cách dàn dựng của Thế Lữ và các nghệ sĩ của nhóm.
Ban kịch Thế Lữ
Ý định thành lập một ban kịch chính thức đã được Thế Lữ ấp ủ từ lâu. Khi Thế chiến II nổ ra, chính quyền thực dân Pháp tăng cường kiểm duyệt, báo Tin tức phải đóng cửa, hy vọng của Thế Lữ về việc tái hợp tác với nhóm Đào Duy Kỳ cũng chấm dứt. Nhóm kịch Thế Lữ bị theo dõi, hoạt động càng lúc càng khó khăn. Căn nhà ở Ngã Tư Sở bị từ chối không cho thuê tiếp, Thế Lữ - Song Kim được Thạch Lam rủ về ở chung trong ngôi nhà tranh bên Hồ Tây. Một thời gian sau, Thạch Lam qua đời vì bệnh phổi, sức khỏe Thế Lữ cũng yếu đi sau đó. Vợ chồng ông lại được Tú Mỡ giúp thuê hộ một nơi ở mới trên đường Láng, gần ngôi nhà của gia đình Tú Mỡ. Lúc này, báo Ngày nay đã đình bản, gia đình Thế Lữ lâm vào cảnh khó khăn. Song Kim nuôi thỏ để cải thiện kinh tế, còn Thế Lữ dành thời gian rỗi rãi để học thêm chữ Hán.
Bao nhiêu cuộc họp từ nhỏ đến lớn, ròng rã bốn năm tháng trời ở nhà "gió bốn phương" là bấy nhiêu nhiệt tình của những người xây mộng lập thành ban kịch. Cái mộng ấy cuối cùng cũng thành sự thực: Ban kịch Thế Lữ ra đời! Mọi người nhất trí đặt cho cái tên như vậy, vì lúc ấy tên tuổi nhà thơ Thế Lữ đang được mọi người yêu mến, sẽ giúp cho ban kịch thêm phần tín nhiệm. Và anh em gọi đùa là "Hào chiêu lực".
—Song Kim, hồi ký Những chặng đường sân khấu Ngôi nhà của ông ở đường Láng được bạn bè gọi một cách hoa mỹ là "biệt thự gió bốn phương" - dần trở thành nơi quy tụ nhiều người bạn yêu nghệ thuật. Đầu tiên là Tú Mỡ, Mai Lâm, Huyền Kiêu, rồi Phạm Văn Khoa, Trần Đình Thọ, Phạm Văn Đôn, Trịnh Như Lương, các nhạc sĩ như Nguyễn Xuân Khoát, Lưu Hữu Phước, Lê Thương, cùng Văn Chung - Kim Bình, Kỳ Ngung - Giáng Kiều, Phạm Hồng, Việt Hồng, Thái Bá Cơ, Nguyễn Văn Tỵ..., sau cùng Nguyễn Tuân cũng đến tham gia. Tại căn nhà "gió bốn phương", Thế Lữ cùng những người bạn yêu kịch cùng chí hướng muốn thành lập một ban kịch chuyên nghiệp, có tổ chức, kinh doanh, quản lý quy củ hẳn hoi.
Ban kịch Thế Lữ ra mắt vào năm 1942 với lượng kịch mục phong phú của các tác giả Vi Huyền Đắc, Đoàn Phú Tứ, Mai Phương, Khái Hưng, Bùi Huy Phồn (Đồ Phồn)... Đội ngũ diễn viên của ban dồi dào, đông đảo, có khả năng đảm trách nhiều loại vai. Vốn kinh tế của ban kịch do năm thành viên Phạm Văn Khoa, Phạm Văn Đôn, Trịnh Như Lương, Trần Đình Thọ cùng Thế Lữ đóng góp, mỗi người đóng 500 đồng, trở thành "người sáng lập chủ yếu". Để có số tiền này, Thế Lữ đã đi cầm miếng đất mẹ ông cho và về sau không bao giờ chuộc lại. Thế Lữ là đạo diễn kiêm diễn viên của đoàn, họa sĩ trang trí có Phạm Văn Đôn, Trần Đình Thọ, Nguyễn Thị Kim, riêng Trịnh Như Lương đóng vai trò thủ quỹ và Phạm Văn Khoa làm giao dịch kiêm kỹ thuật hậu đài. Đặc biệt, ban kịch còn đặt ra quy định về chế độ bản quyền, thù lao cho diễn viên và các thành viên khác trong đoàn, đưa kịch nói lần đầu trở thành một nghề chuyên nghiệp.
Vở diễn đầu tiên ra mắt mùa kịch 1942-1943 là Tục lụy, vở kịch thơ ba màn do Thế Lữ chuyển thể từ vở kịch bằng văn xuôi của Khái Hưng, được Lưu Hữu Phước phổ nhạc và dàn nhạc do Nguyễn Xuân Khoát chỉ huy. Bên cạnh các vở cũ như Kim tiền, Ông Ký Cóp, Lọ vàng... được dàn dựng lại, đoàn còn dựng thêm các vở mới như Khóc lên tiếng cười, Đồng bệnh, Kinh Kha, Lệ Chi Viên... Các vở diễn được thực hiện công phu, kỹ càng từ diễn xuất cho tới trang trí, hóa trang, "đã làm cho mùa diễn thực sự thành công, đem lại một không khí mới mẻ cho nghệ thuật sân khấu lúc bấy giờ".
Hoạt động chưa được bao lâu, ban kịch Thế Lữ đã gặp khó khăn từ phía chính quyền. Cơ quan kiểm duyệt I.P.P. tăng cường giám sát khắt khe đối với ban kịch. Vở Kinh Kha, lấy đề tài từ chuyện nhà Tần xâm lược nước Yên, bị cấm diễn sau khi đã ra mắt tại Nhà hát lớn; vở Kim tiền thay thế cũng bị yêu cầu cắt bỏ phần cuối do có đoạn công nhân mỏ đấu tranh chống lại chủ. Để diễn vở này, đoàn kịch phải thay thế đoạn trên bằng chuyện lục **c trong gia đình nhà chủ mỏ. Mối quan hệ của ban kịch với chính quyền thêm căng thẳng, khi Thế Lữ và các thành viên từ chối yêu cầu của nhà cầm quyền: muốn ban kịch diễn vở Évêque d'Adran (Đức cha Bá Đa Lộc), cũng như treo ảnh Pétain trên sân khấu. Gặp sự cấm đoán, cộng thêm điều kiện vật chất nhiều khó khăn, ban kịch Thế Lữ lặng lẽ giải tán một thời gian sau.
Dù chỉ hoạt động trong thời gian không dài, nhưng ban kịch Thế Lữ vẫn được xem là đơn vị kịch nói chuyên nghiệp, có tổ chức và quy mô đầu tiên của Việt Nam, và "chưa có một đơn vị sân khấu nào lại hội tụ được đông đảo văn nhân nghệ sĩ có tên tuổi và trình độ cao như thế".[u]