VĂN HỌC LÃNG MẠN
“ Bên cạnh những mặt tiêu cực thoái hoá, còn có nỗi đau của người dân mất nước, sự quằn quại của 1 tâm hồn bị bóp nghẹt, lòng khao khát 1 cuộc sống chân thật, tự do”. (Đồng chí Trường Chinh nói về văn học lãng mạn 1930-1945 tại Đại hội Văn nghệ toàn quốc lần thứ hai năm 1957).
* Những hạn chế của văn học lãng mạn:
- Biểu hiện cực đoan của chủ nghĩa cá nhân
- Thái độ ít nhiều vô trách nhiệm trước thời cuộc
* Những thành tựu chủ yếu của căn học lãng mạn:
- Nỗi đau của người dân mất nước: Cái nhìn thê lương, nỗi buồn cô đơn, bế tắc (Đây mùa thu tới, Tràng giang, Ông đồ…)
- Sự quằn quại của 1 tâm hồn bị bóp nghẹt (Nhớ rừng, Vội vàng…)
- Lòng khao khát 1 cuộc sống chân thật, yêu đời, yêu cuộc sống, yêu quê hương. (Thơ duyên, Tràng giang, Đây thôn Vĩ Dạ…)
- Sự sáng tạo thể thơ, đề tài, sự vận dụng sáng tạo Tiếng Việt.
* Đánh giá chung về văn học lãng mạn:
- Tuy còn 1 số hạn chế song văn học lãng mạn là 1 dòng văn học dân tộc.
- Văn học lãng mạn có nhiều đóng góp cả về nội dung và nghệ thuật.
THƠ MỚI
Thơ mới không nói đến đấu tranh cách mạng, đó là nhược điểm lớn, và Thơ mới nói chung là buồn. Đó là nỗi buồn của cả 1 thế người trong xã hội thực dân nửa phong kiến, nó thành ra nỗi buồn về số kiếp con người, cái buồn tưởng như là bản chất của cuộc đời. Cũng có những bài thơ vui, những vần thơ vui, có vài nhà thơ mà tâm hồn thiên về cảm xúc vui, nhưng bao trùm Thơ mới có thể nói là nỗi buồn day dứt, nỗi buồn của thế hệ. Nhưng cái buồn của Thơ mới đâu có phải đều là nỗi buồn uỷ mị. Nỗi buồn của “con hổ nhớ rừng” là nỗi buồn chan chứa hoài niệm về giang sơn, đất nước. Nỗi buồn trong bài thơ Tràng giang không phải là lòng yêu quê hương đó sao? Nhược điểm của Thơ mới là thiếu khí phách cách mạng, nhưng Thơ mới là phong trào văn học phong phú, 1 phong trào sáng tạo dồi dào có nhiều yếu tố tích cực: lòng yêu quê hương, đất nước đậm đà, lòng yêu sự sống, yêu con người. Bên cạnh nỗi buồn lại có chủ nghĩa lạc quan như là mạch nước ngầm trong mắt, lòng trân trọng yêu mến cha ông, yêu mến quá khứ đẹp đẽ của đất nước, giống nòi. Lại có những nhà thơ có cảm quan vũ trụ sâu sắc mà vẫn nặng lòng đời. Và tất cả các nhà Thơ mới đều có chung 1 tình yêu: Yêu Tiếng Việt, yêu tha thiết, yêu da diết. Chính lòng yêu Tiếng Việt đó là 1 biểu hiện của lòng yêu nước.
Phong trào Thơ mới đã đóng góp nhiều về nghệ thuật thơ, đã đổi mới sự biểu hiện cảm xúc mạnh, nghĩa là cảm xúc sâu thẳm về cuộc đời, về con người, về đất nước, về thiên nhiên, về vạn vật. Thơ mới đã trau dồi Tiếng Việt, làm cho ngôn ngữ thơ Việt Nam uyển chuyển và hiện đại, mượt mà, chứa đựng nhiều năng lượng trữ tình cho những nhà thơ - các thế hệ ra đời sau cách mạng Tháng tám, để biểu hiện tư tưởng và tình cảm của mình.
Với những ưu điểm và nhược điểm của nó, Thơ mới xứng đáng được mệnh danh là “một thời đại trong thi ca” như Hoài Thanh đã nói, 1 thời đại phong phú, dồi dào sức sáng tạo của hồn thơ dân tộc.