- Có ngọn lửa nào đang được khơi lênbằng hơi men. Chỉ biết rằng cô gái đã quyết thay váy áo đi chơi, điềumà bao năm rồi cô không nhớ đến. Có thể coi đây là một bước đột biếntâm lý nhưng là kết quả hợp lý toàn bộ quá trình tác động qua lại giữahoàn cảnh với tính cách nhân vật. Sự “vượt rào” của Mỵ tuy bịđàn áp ngay (A Sử đã tắt đèn, trói đứng cô vào cột); nhưng ý thức vềquyền sống, khát vọng về hạnh phúc đã trở lại. Mị lại biết khóc, lạimuốn tự tử. Và những giọt nước mắt trong cái ngày tàn nhẫn này sẽ lưugiữ trong lòng Mỵ như một vết bỏng rát để đến khi bắt gặp những dòngnước mắt chảy “lấp lánh” trên gò má hốc hác của A Phủ, nó đã biến thànhsự đồng cảm sâu sắc giữa những người cùng khổ. Toàn bộ ý thức phảnkháng của Mị hiện hình qua một câu hỏi sáng rõ: “người kia việc gì phải chết?”Mỵ quyết định trong khoảnh khắc: cắt dây trói giải thoát cho A Phủ. Vàtất nhiên, Mỵ cũng bỏ trốn, tự giải thoát chính mình. Hai kẻ trốn chạychịu ơn nhau, cảm thông nhau, dựa vào nhau để tạo lập hạnh phúc. Thếnhưng cái đồn Tây lù lù xuất hiện và lại có cha con thống lý Pá Tra vềở trong đồn, thì họ thật sự bị dồn đến chân tường. Trước mặt họ, chỉcòn sự lựa chọn cuối cùng: trở lại kiếp nô lệ hay chống kẻ thù. Chắcchắn họ thà chết còn hơn lại sống như cũ. Nhưng muốn chống kẻ thù, họtrông cậy vào ai? Cách mạng đã đến với họ đúng giây phút ấy. Mỵ và APhủ đi theo cách mạng, sẽ thuỷ chung với cách mạng như một lẽ tất yếu!Đó là tấm lòng nhân đạo mới mẻ của Tô Hoài nhờ có ánh sáng của cách mạng.
- Bằng sự am hiểu cuộc sống và khảnăng phân tích những vấn đề sắc bén, nhất là bằng ngòi bút miêu tả tâmlý tinh tế, Tô Hoài đã tái hiện chân thật và sinh động cuộc hành trìnhtừ đau khổ, tối tăm ra phía ánh sáng cách mạng của những người dân laođộng với chế độ cũ. Tác phẩm đem lại cho bạn đọc nhận thức đúng đắn vềcon đường cách mạng dân tộc dân chủ ở nước ta.
- Giá trị hiện thực của Vợ chồng A Phủđã để lộ cái nhìn nhân đạo, ưu ái của Tô Hoài. Khi cô đúc nỗi cùng khốnvào hai thân phận nô lệ với ý thức làm một bản cáo trạng về xã hội cũ,Tô Hoài đã gợi lên trong chúng ta sự căm phẫn, sự đau xót. Đó cũng làtấm lòng nhân đạo của nhà văn trước sự bất hạnh của đồng loại.
- Tính chân thật, chính xác, logic ởnhững đoạn mô tả tâm lí, nhưng rõ ràng phải biết thông cảm, biết trântrọng nâng niu con người lắm, mới có thể xét đoán tâm hồn người ta tinhtế như vậy. Đó là con người biết yêu quý tự do, biết khẳng định quyềnsống. Ngay cả lúc bị hoàn cảnh vùi dập đến mê mụ, trong tro tàn củalòng cô vẫn âm ỉ đốm than hồng của niềm ham sống, khao khát thương yêu.Nếu nhà văn chỉ tuân theo một thứ hiện thực khách quan, lạnh lùng thìlàm sao ông có thể đón đợi và nắm bắt tài tình giây phút sống lại bấtngờ và mãnh liệt đến thế của cô gái. Ông vẫn tin rằng hoàn cảnh dẫu cókhắc nghệt đến mấy, cũng không thể tiêu diệt hoàn tòan nhân tính. Mị đãsống lại bằng tuổi trẻ, bằng nỗi day dứt về thân phận của mình. Chínhcái khát vọng sống mãnh liệt không thể chết được ở Mị, làm cho Mị đồngcảm với cảnh ngộ của A Phủ và đi đến quyết định giải thoát cho A Phủ,giúp Mị tự giải thoát khỏi cái chốn địa ngục để làm lại cuộc đời, đểsống như một con người. Thể hiện một niềm tin mạnh mẽ vào con người, đólà tấm lòng nhân đạo cao cả của nhà văn.
III. Tô Hoài đã trântrọng từng bước trưởng thành của Mỵ và A Phủ. Cái nhìn của ông về hainhân vật này là một cái nhìn nhân đạo tích cực. Ông cảm thông nỗi đaucủa Mỵ và A Phủ, mặt khác ông trân trọng ý thức nhân phẩm, khát vọnggiải phóng và tin ở khả năng tự làm chủ trước cuộc đời của hai conngười đau khổ này. Phải chăng, chính cái nhìn đó đã tạo nên giá trịnhân văn của tác phẩm.
Câu 3.b:
I. Giới thiệu: Tác giả, tác phẩm, vẻ đẹp hình tượng dòng sông qua bút pháp tài hoa của Hoàng Phủ Ngọc Tường.
II. Nội dung chính: (thí sinh có thể trình bày theo nhiều cách, nhưng phải đảm bảo những ý chính sau đây):
Tác phẩm ca ngợi vẻ đẹp sông hương ởnhiều góc độ: từ thượng nguồn tới khi qua kinh thành Huế; từ tự nhiên,lịch sử văn hóa, nghệ thuật.
1. Vẻ đẹp sông Hương ở thương nguồn:
- Ở đấy ta gặp một dòng sông đẹp, mạnh mẽ được ví như “cô gái Digan phóng khoáng và man dại”, sông như bản trường ca; sông như cơn lốc, sông như cô gái Di gan và nâng lên thành vẻ đẹp cao cả: “người mẹ phù sa”.
- Tác giả tăng vẻ đẹp cho dòng sông bằng nghệ thuật nhân hóa.
2. Vẻ đẹp sông Hương trước khi về kinh thành Huế:
- Hương giang như “người gái đẹp nằm ngủ mơ màng giữa cánh đồng Châu Hóa đầy hoa dại”.
- Dòng sông mềm như tấm lụa (hình dáng).
- Sớm xanh, trưa vàng, chiều tím (màu sắc).
- Trôi chậm như mặt hồ yên tĩnh (dòng chảy).
Tất cả đều đó tạo nên một vẻ đẹp trầm mặc, như triết lí như cổ thi.
Khi dòng sông chảy vào thành phố, tác giả đã có những phát hiện độc đáo về sông Hương.
3. Vẻ đẹp sông Hương chảy về đồng bằng và ngoại vị thành phố:
Nó mang vẻ đẹp như chiều sâu hồn người. Như xa lâu ngày gặp lại cố nhân kinh thành thân yêu nên sông Hương “vui tươi hẳn lên giữa những biền bãi xanh biếc của cùng ngoại ô Kim Long”.
+ Cảm xúc như trào dâng, dòng sông chợt mềm hẳn đi, say đắm lạ thường “như tiếng vâng không nói ra của tình yêu”.
+ Dòng sông như lưu luyến lúc rời xa kinh thành, Nó tựa như một “nỗi vấn vương” và cả “một chút lẳng lơ kín đao của tình yêu”.
Lối so sánh tài tình và nhân cách hoáđộc đáo làm người đọc ngây ngất và tâm hồn thăng hoa theo dòng sông đatình như một khách hào hoa phong nhã .
4. Vẻ đẹp khác của sông Hương:
- Dòng chảy lịch sử.
- Dòng chảy của văn hóa và thi ca.
- Dòng sông đi vào đời thường “nó trở về với cuộc sống bình thường, làm một cô gái dịu dàng của đất nước”.
III. Kết luận:
- Sông Hương được cảm nhận với nhiềugóc độ, bằng bút pháp tài hoa và văn phong mềm mại, tạo nên đường nétthật tinh tế làm nên vẻ đẹp cổ kính của kinh thành.
- Đó là những phát hiện thú vị của tác giả, giúp chúng ta thêm tự hào và yêu đất nước.